Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

Các biện pháp chẩn đoán cơn đau thắt ngực

Cơn đau thắt ngực thường là dấu hiệu cảnh báo sự xylynuocmiennam hiện diện của bệnh mạch vành với mức độ đáng kể. Những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực cũng có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim là tình trạng cơ tim bị tắt thở vì chưng mạch vành bị ách tắc hoàn trả toàn vì chưng cục máu đông. Khi bị đau thắt ngực, tình trạng thiếu oxy của cơ tim là tạm thời và có trạng thái phục hồi được. Tình trạng thiếu oxy của cơ tim hồi phục và xulynuocmiennam.com/may-loc-nuoc-nano-cao-cap-cua-usa-my.html" title="máy lọc nước" target="_blank" rel="dofollow">máy lọc nước cơn đau ngực biến mất khi bệnh nhân dịp nghỉ ngơi. Ngước lại, những tổn thương xót của cơ trong nhồi máu cơ tim là vĩnh viễn. Cơ tắt thở đi hóa thành mô sẹo khi lành lại. Tim bị sẹo sẽ chẳng thể cường điệu máu một cách công hiệu như một quả tim bình thường được và có trạng thái dẫn đến suy tim. Trên 25% bệnh nhân dịp bị bệnh mạch vành với chừng độ đáng kể không có triệu chứng gì cả, ngay cả khi rõ ràng gia tộc thiếu máu và oxy nuôi cơ tim. Những bệnh nhân dịp này bị cơn đau thắt ngực "im lặng". Họ cũng có cùng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim với những người bị danh thiếp triệu chứng đau thắt ngực khác.

Cơn đau thắt ngực được chẩn đoán như thế nào?

Điện tâm đồ (ECG, EKG) là bản kết quả hoạt động điện học của cơ tim và có trạng thái phát hiện ra những cơ tim đang cần oxy. Điện tâm đồ có giá trị trong việc biểu thị những thay đổi của cơ tim bởi chưng thiếu oxy gây ra mê hoặc cơn nhồi máu cơ tim.

Nghiệm pháp cố gắng sức

Ở những bệnh nhân dịp có điện tâm đồ được đo lúc ở thể ngơi nghỉ bình phẩm thường thì việc đo điện tâm đồ khi đang vận động huyễn hoặc đang đạp xe đạp có trạng thái là cách tầm soát bổ ích đối với bệnh mạch vành. Khi thực hành nghiệm pháp nỗ lực sức (còn được gọi là điện tâm đồ nỗ lực sức), ECG sẽ được đo liên tục trong khi bệnh nhân dịp đang đi trên máy tập chạy bộ hoặc đạp xe đạp tại chỗ và gia tăng độ khó của bài tập dần dần. Sự xuất hiện của cơn đau ngực trong khi cố sức có trạng thái tương ứng với những thay đổi trên ECG biểu lộ sự thiếu oxy của cơ tim. Khi bệnh nhân nghỉ ngơi thì cơn đau thắt ngực cũng như những thay đổi trên ECG biểu lộ sự thiếu oxy của cơ tim cùng biến mất. Tính chính xác của điện tâm đồ gắng sức trong chẩn đoán bệnh lý mạch vành ở vào khoảng 60% đến 70%. Nếu điện tâm đồ gắng sức không cho thấy dấu hiệu của bệnh mạch vành, có thể cho thallium theo đường tĩnh mạch trong lúc thực hiện nghiệm pháp  gắng sức. Sự thêm vào của thallium này cho phép ghi hình hạt nhân dịp dòng máu đến những vùng khác nhau của cơ tim văn bằng một camera gắn ngoài. Sự giảm lưu lượng máu đến một khu vực nào đó của tim trong khi tập luyện và phẩm bình thường khi nghỉ ngơi cho biết có một đoạn mạch vành hẹp đáng kể ở vùng tương ứng của tim.

Siêu âm tim cố kỉnh sức

Là phương pháp kết hợp siêu âm tim với nghiệm pháp cố kỉnh sức. Cũng giống như nghiệm pháp thallium cố sức, siêu âm tim cố kỉnh sức xác thực hơn điện tâm đồ gắng sức trong việc phát hiện ra bệnh mạch vành. Khi động mạch vành hẹp đáng kể, vùng cơ tim được động mạch này cung cấp máu sẽ không co bóp tốt như phần còn lại của cơ tim trong khi cố gắng sức. Sự thất thường trong hoạt động co bóp của cơ tim có thể được phát hiện bằng siêu thanh tim. Siêu âm tim gắng sức và thallium cố sức đều có độ chuẩn xác vào khoảng 80% đến 85% trong việc phát hiện bệnh mạch vành ở độ nặng tương đối. Khi bệnh nhân chẳng thể thực hiện nghiệm pháp cố kỉnh sức bởi vì những vấn đề thần kinh huyễn hoặc cơ xương khớp, may loc nuoc nano các thầy thuốc có thể tiêm thuốc vào tĩnh mạch để tạo ra một tình trạng stress cho tim na ná như khi bệnh nhân đang cố sức. Khi đó hình ảnh của tim có trạng thái được ghi nhận lại bằng camera hạt nhân mê hoặc văn bằng siêu âm tim.

Thông tim

Thông tim cùng với chụp mạch máu (chụp mạch vành) là một kỹ thuật cho phép chụp lại hình ảnh X quang đãng của danh thiếp động mạch vành. Nó là loại khảo sát phát hiện ra hẹp động mạch vành một cách chính xác nhất. Các ống nhựa rỗng nhỏ (catheter) được luồn vào danh thiếp lỗ mở của các động mạch vành dưới sự chỉ dẫn của X quang. Thuốc nhuộm cản quang quẻ Iod sẽ được tiêm vào danh thiếp động mạch này khi hình ảnh x quang đãng đang được ghi nhận lại. Thủ thuật chụp mạch vành cho phép bác sĩ có được hình ảnh về vị trí và độ nặng của bệnh động mạch vành. Thông tin này có thể quan trọng trong việc giúp bác sĩ lựa chọn được những biện pháp điều động trị thích hợp.

Chụp mạch vành qua CT

Là thủ thuật tiêm thuốc nhuộm có chứa iod vào tĩnh mạch rồi sau đó chụp CT để ghi nhận lại hình ảnh của danh thiếp động mạch vành. Tuy không phải dùng đến danh thiếp catheter (do đó nó được gọi là một thủ thuật "không xâm lấn") nhưng nó vẫn chứa đựng một mệnh nguy cơ, bao gồm:
  • Bệnh nhân có thể bị dị tương ứng với iod.
  • Bệnh nhân có công năng thận thất thường
  • Tiếp xúc với phóng xạ với chừng độ tương đương huyễn hoặc nhiều hơn so với chụp mạch vành quy ước.
Tuy nhiên, đây vẫn thường là một khảo trung thành an toàn cho hầu hết man di người. Nó là dụng cụ quan yếu để chẩn đoán bệnh mạch vành ở những bệnh nhân:
  • Có nguy cơ bị bệnh mạch vành cao (những người hút thuốc lá, những người có nguy cơ di truyền, có nồng độ cholesterol máu cao, tăng huyết áp, hoặc đái tháo đường).
  • Những người thực hiện nghiệm pháp cố gắng sức mê hoặc những nghiệm pháp khác cho kết quả nghi ngờ, hoặc
  • Những người có các triệu chứng gây nghi ngờ đến bệnh mạch vành.
Theo Y khoa – net

Các biện pháp chẩn đoán cơn đau thắt ngực Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Tin tcc

0 nhận xét:

Đăng nhận xét